Kỳ 6: Lãnh địa mộ cổ khổng lồ
Loạt bài phá mộ cổ trộm báu vật ở Hải Phòng:
Kỳ 1: Kho báu trong “mộ Sở”
Kỳ 2: Những kẻ truy lùng ‘kho báu Sở’
Kỳ 3: Pháp sư kỳ lạ
Kỳ 4: ‘Kẻ cướp mộ’ đào rỗng núi tìm báu vật
Kỳ 5: Nỗi sợ hãi của những kẻ trộm mộ núi Rùa
Sau nhiều ngày lang thang tìm hiểu về khu ‘nghĩa địa’ mộ Hán cổ khổng lồ bị tàn phá nặng nề ở xã Chính Mỹ, tôi được một số ‘kẻ săn mộ’ chỉ sang xã Liên Khê (Thủy Nguyên, Hải Phòng), cách đó không xa, vùng đất với những quả đồi thấp xen lẫn núi vừa, tạo thành một quần thể rất đẹp bên sông Đá Bạc.
Theo những trùm sỏ chuyên đào mồ cuốc mả trộm cắp cổ vật, thì vùng đất Liên Khê mới thực sự là một nghĩa địa mộ cổ khổng lồ, với những ngôi mộ rất lớn, chứa nhiều cổ vật. Đặc biệt, nhiều ngôi mộ vẫn còn nguyên vẹn, chưa bị khai quật.
Anh Mạc Văn Trọng, con cháu của dòng tộc họ Mạc huyện Thủy Nguyên, dòng dõi nhà Mạc, dẫn tôi đi dọc các dải núi nhấp nhô bên dòng Đá Bạc cuồn cuộn chảy. Đứng bên một ngôi mộ cổ, anh Trọng chỉ con đường mới mở và bảo đó là Thành Dền.
Thành Dền là cái tên quen thuộc, nơi vua Mạc Đăng Dung xây dựng như một pháo thủ bên sông Đá Bạc. Thành Dền đắp bằng đất, nối các dải núi với nhau, tạo thành một lãnh địa kín đáo, bất khả xâm phạm. Thành Dền nằm bên sông Đá Bạc, thuận đường thủy tiến ra biển Đông. Dải đất bồi mép sông cạnh khu vực Thành Dền là bãi cọc lim còn chìm dưới lòng đất, nơi từng diễn ra những trận thủy chiến thời Trần và có thể nhiều đời trước.
Vùng đất Liên Khê đậm đặc văn hóa, di chỉ, từ thời con người ở hang hốc, với các dụng cụ ghè đẽo bằng đá, bằng đồng, thời đại đồ sắt, thời Bắc thuộc, rồi trải các đời Trần, Lê, Mạc, xuyên suốt mấy ngàn năm. Trong các cuộc khảo cổ, nhiều nhà khoa học khẳng định rằng, vùng đất này thực sự là cái nôi của người Việt cổ.
Nhưng, những di chỉ còn hiện rõ và còn “nguy nga lộng lẫy” đến ngày nay trong lòng đất, có lẽ phải kể đến hệ thống những ngôi mộ khổng lồ có tuổi 2.000 năm ở trong lòng các quả núi. Đây thực sự không chỉ là những kho dữ liệu thông tin khổng lồ về khảo cổ học, mà còn là kho báu thực sự bởi nó chứa rất nhiều cổ vật giá trị.
Anh Mạc Văn Trọng đứng trên gò đất, cạnh ngôi mộ cổ, chỉ một vòng tay, bảo: “Thành Dền là di chỉ của nhà Mạc, được nói rõ trong các cuộc khai quật, hội thảo, thế nhưng, doanh nghiệp cho máy ủi san phẳng thành con đường chở vật liệu rồi. Đoạn thành đất cao bằng mái nhà khi xưa giờ biến mất. Các quả núi là tường thành tự nhiên, nơi có đầy di chỉ khảo cổ, cũng bị họ cuốc hết, nghiền thành xi măng, lấy đá đất đem bán rồi. Thậm chí, những quả núi đầy giá trị khảo cổ, còn bị đào âm xuống lòng đất cả chục mét. Chẳng ai quan tâm đến những giá trị lịch sử và khảo cổ cả”.
Nhà ông Lê Văn Thạn, ở thôn Thiểm Khê, dưới chân một quả núi thấp, đá sỏi gan trâu. Tôi dạo ra phía sau nhà ông, nhìn trên mặt đất đá sỏi, lẫn lộn lổn nhổn những viên gạch cổ vỡ vụn, dấu tích trong các ngôi mộ. Trên núi, nham nhở những vết đào bới của các nhóm săn trộm cổ vật.
Ông Thạn sinh năm 1939, từng là chủ tịch xã Liên Khê thời điểm 1976 đến 1984. Sau về làm bí thư chi bộ thôn.
Trong ký ức của ông Thạn, thì đoạn Thành Dền vẫn rõ mồn một và rất kỳ vĩ. Đó là tường thành đắp đất, nhưng cao gần 10m, như con đê lớn. Tuổi trẻ, ông cùng bạn bè chăn trâu vẫn trèo lên thành, nhìn ra tới sông Đá Bạc.
Bọn trẻ thời ông Thạn vẫn nghêu ngao câu đồng dao: “Thành Dền cửa Cái bước ra/ Cây hương cửa Chậu có ba chĩnh vàng”. Câu đồng dao đó lưu truyền trong dân gian lâu đời rồi. Từ câu đồng dao đó, người dân trong vùng xác minh những chĩnh (bình loại to) vàng đó được chôn ở quả núi đất có tên núi Chậu ngay cửa sông Đá Bạc (gọi là sông Cái).
“Thời điểm năm 67-68 tôi đi bộ đội trong Nam, lúc về có nghe các cụ nói, có một nhóm người Tàu (người Trung Quốc) đi thuyền từ biển Đông vào, rồi đào bới nhiều ngày ở núi Chậu và họ chở đi rất nhiều vàng. Khoảng năm 86-87, nhà máy phá núi lấy đá xây dựng, lộ ra một cái động trong lòng núi, thu được rất nhiều cổ vật quý, có lẽ phải chứa ngập cả ngôi nhà. Chính tôi được chứng kiến. Sau này, các doanh nghiệp tiếp tục phá nốt toàn bộ quả núi, cũng lộ ra rất nhiều mộ cổ, rồi những hang hốc chứa nhiều cổ vật. Quả núi đấy giờ biến mất rồi” – ông Lê Văn Thạn bùi ngùi kể.
Hai ngôi mộ tuy không nhiều cổ vật, nhưng lại nổi tiếng, gây xôn xao một thời, là hai ngôi mộ khổng lồ bằng gỗ, đào được ở khu vực này cách nay hơn chục năm.
Vào năm 2009, Công ty Tân Phú Xuân, khi đào phá núi Phụ Gia, trúng một ngôi mộ cổ khổng lồ ở độ sâu tới 13m. Từ sườn núi phía bờ sông Đá Bạc thẳng đến ngôi mộ khoảng 60m. Thật khó tưởng tượng, ngôi mộ lại nằm sâu như thế. Những người đào mộ đoán rằng, phải là mộ của vua chúa, có nhiều kẻ thù, cần phải đào sâu chôn kỹ, mới kín đáo như vậy, nên rất sợ hãi.
Phía trên ngôi mộ là một lớp than củi đen. Phía dưới, là những tấm gỗ khổng lồ, xếp thành hình chữ nhật, mộng đóng khít cực kỳ nguyên vẹn. Bên trong “ngôi nhà gỗ” đó, là một quan tài khổng lồ, được làm bằng gỗ lim cực kỳ chắc chắn, nguyên vẹn.
Doanh nghiệp này sợ đụng phải mộ vua, không dám phá mộ, nên đã thuê thầy bà cúng bái cẩn thận, dùng máy cẩu nhấc nguyên vẹn toàn bộ ngôi mộ cùng quan tài, đưa lên xe tải, chở ra mỏm đồi bên cạnh quả núi Phụ Gia để chôn. Ngôi mộ tồn tại từ đó đến nay, nằm bên cạnh con đường từng là Thành Dền.
Sau đó 2 năm, vào năm 2011, khi phá quả núi Phụ Gia này lấy đất đá nghiền xi măng, thì Công ty Tiến Thành lại chạm một ngôi mộ gỗ khổng lồ, y hệt “mộ vua”, nằm cách “mộ vua” đúng 300m. Ngôi mộ này cũng sâu tới 13m, và từ mép núi phía sông vào là 63m.
Vì lời đồn kinh dị liên quan đến “mộ vua”, nên Công ty Tiến Thành không dám xâm phạm ngôi mộ này. Họ đã giữ nguyên hiện trạng, thông báo cho Bảo tàng Hải Phòng. Bảo tàng Hải Phòng đã thuê một số “chuyên gia trộm mộ”, đều là những người có kinh nghiệm đào mộ cổ, khai quật ngôi mộ này.
Đó là một ngôi mộ gỗ hình cũi rất lớn, được xếp bằng gỗ lim. Trong lòng quách gỗ là quan tài hình thân cây khoét rỗng. Bên trong quan tài không còn xương cốt, nhưng có một số cổ vật như 7 chiếc mâm bồng bằng gỗ, 4 pho tượng người cách điệu bằng gỗ sơn son thếp vàng, các di vật rất nhiều như mai, đĩa, chén, lược, lọ, bình, vò, chum, bát, thạp, thìa bằng gỗ và đất nung với hoa văn trang trí chủ chủ yếu là hình tổ ong và các khắc, vạch.
Ngoài ra, còn tìm thấy một số quả cau và vết tích của những lá trầu không làm bằng gỗ…
Theo sự chỉ dẫn của ông Lê Văn Thạn, tôi dễ dàng tìm được anh Trịnh Văn Hoài, nhà ở cạnh khu vực có tên Đấu Đong Quân (nơi nhà Trần tập hợp đếm quân như kiểu đong gạo).
Anh Hoài pha trà, mời thuốc nước dưới gốc cây trước cổng nhà. Tôi ngỡ ngàng, khi trên mặt bàn, thứ đựng đầy tàn thuốc lá, là một chiếc bình cổ bằng gốm, tuổi cỡ gần 2.000 năm. Thấy tôi tò mò, phán đoán tuổi cổ vật, anh Hoài cười và công nhận có tí chút hiểu biết. Rồi anh dẫn tôi ra vườn cây. Tôi thấy la liệt chum, bình, vò cổ, toàn bằng gốm, vứt lăn lóc gốc cây, đựng nước. Anh bảo, toàn là đồ cổ, có thứ đến 4 ngàn năm, còn lại hầu như cỡ 2 ngàn năm.
Rồi anh dẫn vào trong nhà, mở chiếc tủ kính, cho tôi xem vô số cổ vật. Kinh ngạc nhất là chiếc ấn bằng ngọc. Nhìn những món đồ, đặc biệt là là những mảnh gốm của một ngôi nhà mô hình thu nhỏ, tôi đoán ra chúng được lấy từ những ngôi mộ Hán, từ thời Bắc thuộc, hình thức mộ táng mà tôi từng có nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên cứu.
Theo lời anh Trịnh Văn Hoài, quả núi Phụ Gia từng là một… khó báu khổng lồ, bởi đó là một nghĩa địa mộ Sở. Chuyện người dân ở vùng đất này gọi những ngôi mộ cổ trong lòng núi là mộ Sở, tức mộ của người nước Sở, cũng giống như cách gọi của người dân ở khu vực xã Chính Mỹ và toàn bộ vùng Thủy Nguyên.
Theo anh Hoài, núi Phụ Gia có cả trăm ngôi mộ cổ. Anh từng đào bới, thu được không biết bao nhiêu cổ vật, số lượng có lẽ đến hàng ngàn món, anh bán hết cho mấy đại gia sưu tầm từ độ 20 năm trước. Anh tinh thông đến nỗi, trèo lên núi, dùng xẻng chọc chọc vào đất, là biết bên dưới lòng núi có mộ, mộ to hay nhỏ.
Ở quả núi Phụ Gia, mộ được chôn tầng tầng lớp lớp. Có 3 loại mộ cổ chính, một là mộ đất, hai là mộ gạch và 3 là mộ gỗ.
Mộ đất là loại mộ người xưa đào sâu xuống lòng đất, có thể sâu đến cả chục mét, đặt xác người chết xuống, không có quan tài gỗ, xếp đồ vật cạnh người chết, rồi lấp đất lại. Khi đào sâu xuống, sẽ lấy được đồ cổ xếp thành mặt phẳng. Xương cốt không còn, hoặc may ra chỉ thấy vệt trắng, gặp không khí là biến mất.
Loại mộ gạch thì nhiều nhất. Đó là những ngôi mộ vòm cuốn, như những đường hầm. Có ngôi mộ chỉ cách mặt đất độ 2-3m, có ngôi sâu cả chục mét. Có ngôi nhỏ, gồm 1 cuốn, có ngôi to như tòa nhà trong lòng đất. Trong mộ gạch cũng có rất nhiều đồ cổ.
Loại mộ nữa là mộ gỗ. Mộ gỗ thường ở rất sâu. Gỗ gồm những tấm lớn, thường là gỗ lim, xếp thành hình một cái cũi, như ngôi nhà. Có những ngôi mộ tốn cả trăm tấn gỗ lim. Bên trong cái cũi là quan tài chứa xương cốt. Trong quan tài và ngoài quan tài, đều có nhiều cổ vật, thậm chí vàng ngọc, vì quan niệm chia của cho người chết.
Còn tiếp…
Nguồn: https://vtc.vn/lanh-dia-mo-co-khong-lo-o-hai-phong-va-bi-an-sam-truyen-kho-bau-ar480845.html